Thứ tư, 03/09/2025 | 15:43 GMT +7

  • Click để copy
Thứ tư- 15:43, 03/09/2025

Muốn phát triển, ngành chè Việt phải đi con đường nông nghiệp hữu cơ

TS Nguyễn Ngọc Bình - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc chia sẻ về giải pháp sản xuất hữu cơ của ngành chè.

Theo TS Nguyễn Ngọc Bình, trong nhiều thập kỷ qua, ngành chè Việt Nam tập trung theo hướng tăng năng suất, quá trình canh tác đã sử dụng rất nhiều phân bón hóa học, thuốc BVTV tổng hợp. Lâu dài dẫn đến hệ lụy đất có dấu hiệu bị thoái hóa và ô nhiễm khá rõ rệt, sức khỏe cây trồng sa sút, chất lượng sản phẩm giảm.

Cùng với đó, môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động trực tiếp bị ảnh hưởng, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn. Một thời gian dài thị trường gặp khó khăn và Việt Nam được ví như cái nôi chè giá rẻ, doanh thu ngành chè không tăng lên, đời sống người dân vùng chè bấp bênh...

TS Nguyễn Ngọc Bình - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Ảnh: Quang Dũng.

TS Nguyễn Ngọc Bình - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Ảnh: Quang Dũng.

Tuy nhiên, cùng với xu thế chung của thế giới, những năm qua, nhu cầu sử dụng sản phẩm chè an toàn, chất lượng, đặc biệt là chè hữu cơ ngày càng tăng lên, yêu cầu của thị trường xuất khẩu ngày càng càng khắt khe, chặt chẽ hơn, vì vậy ngành chè Việt Nam cũng từng bước dịch chuyển theo hướng tăng chất lượng sản phẩm. Từ công tác quản lý, cơ chế chính sách đến nhận thức của người sản xuất, người tiêu dùng, chuỗi giá trị ngành chè Việt Nam đều dịch chuyển theo hướng an toàn, chất lượng, trong đó có vấn đề phát triển chè hữu cơ.

"Quá trình dịch chuyển này có một số thuận lợi, nhưng đi kèm nhiều khó khăn, thách thức”, TS Nguyễn Ngọc Bình phân tích.

Thứ nhất là chuyển từ tập quán canh tác truyền thống sang quy trình sản xuất chè hữu cơ mất khá nhiều thời gian, tối thiểu cũng phải từ 18 tháng, phải chấp nhận năng suất cây chè trong thời gian đó bị giảm, thu nhập của người dân bị gián đoạn.

Thứ hai, mặc dù đã có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, tuy nhiên giải pháp đồng bộ về khoa học công nghệ để phát triển chè hữu cơ chưa thực sự hoàn thiện, chính sách chưa đủ mạnh để hỗ trợ, khuyến khích người sản xuất. Thứ ba là tư duy, nhận thức từ cơ quan quản lý đến cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn còn hạn chế.

“Muốn đáp ứng được tiêu chuẩn thị trường và nâng cao lợi thế cạnh tranh, ngành chè Việt Nam phải đi theo con đường nông nghiệp hữu cơ”, TS Nguyễn Ngọc Bình khẳng định.

Con đường đó, theo Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc không chỉ giúp người sản xuất nâng cao sức khỏe, đời sống, giúp người tiêu dùng trong nước và quốc tế có điều kiện tiếp cận với sản phẩm chất lượng, an toàn mà còn nâng cao giá trị, vị thế của ngành chè, định vị vị thế thương hiệu chè Việt trên trường quốc tế.

“Diện tích sản xuất nông nghiệp của Việt Nam ngày càng bị thu hẹp. Giống như nhiều cây trồng khác, chè Việt sẽ phải chịu sức ép từ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Tính đến năm 2024, cả nước có trên 120.000 ha chè với sản lượng hàng năm đạt hơn 1,2 triệu tấn chè búp tươi.

Cây chè vẫn là lợi thế của nông nghiệp Việt Nam và liên quan đến đời sống của hàng triệu hộ dân, chính vì vậy vấn đề chuyển hướng canh tác sang giá trị cao là nhu cầu cấp thiết và hữu cơ là hướng đi phù hợp nhất”, TS Nguyễn Ngọc Bình cho biết.

Cần giải pháp đồng bộ để chuyển ngành chè theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Ảnh: Hoàng Anh.

Cần giải pháp đồng bộ để chuyển ngành chè theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Ảnh: Hoàng Anh.

Về giải pháp, theo TS Nguyễn Ngọc Bình, cần phải có giải pháp khoa học công nghệ tổng thể. Trước hết là tập trung nghiên cứu, tuyển chọn được những giống chè vừa thích ứng được với biến đổi khí hậu vừa có năng suất, chất lượng cao.

Hiện nay, bên cạnh phương pháp lai tạo truyền thống, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn tạo giống, rút ngắn quy trình nghiên cứu, kịp thời phục vụ sản xuất.

Thứ hai là xây dựng quy trình kỹ thuật chuyển đổi theo hướng nâng cao chất lượng và quy trình canh tác phù hợp với mở rộng, phát triển diện tích chè hữu cơ. Trong đó chú trọng một số vấn đề như: giữ và tăng cường độ phì nhiêu, màu mỡ của đất thông qua giải pháp bón bổ sung phân hữu cơ phù hợp và sử dụng thuốc BVTV phù hợp; bổ sung và tăng cường vi sinh vật có ích cho đất, tăng cường vi sinh vật đối kháng nhằm cải tạo đất; trồng cây họ đậu để cố định đạm trong đất và trồng cây che bóng giúp chống xói mòn, rửa trôi đất, từ đó giúp cân bằng hệ sinh thái của cây chè.

Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao nghiên cứu 2 quy trình gồm chuyển đổi sản xuất chè hữu cơ và canh tác chè hữu cơ. Dự kiến đến tháng 12/2025 2 quy trình này sẽ được thông qua và ban hành nhằm kịp thời phục vụ sản xuất, canh tác của ngành chè theo hướng hữu cơ.

Thứ ba, ngành chè Việt Nam cần nghiên cứu tạo ra hệ sinh thái bền vững, nghiên cứu quy trình sản xuất nông nghiệp tuần hoàn. Cùng với đó là công tác nghiên cứu công nghệ chế biến gắn với khoa học công nghệ hiện đại để phục vụ sản xuất, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của thị trường; nghiên cứu xây dựng mô hình liên kết bền chặt giữa các khâu trong chuỗi sản xuất.

Cuối cùng, để phát triển theo hướng hữu cơ, ngành chè cần chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường. Lấy thị trường làm định hướng cho công tác nghiên cứu khoa học, tổ chức sản xuất, canh tác, chế biến, đào tạo nguồn nhân lực…

“Cần một chiến lược rõ ràng và giải pháp đồng bộ để ngành chè Việt Nam phát triển theo hướng nông nghiệp hữu cơ, từ đó nâng cao hiệu quả, giá trị tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất, nâng cao vị thế, giá trị của cây chè Việt Nam”, TS Nguyễn Ngọc Bình kiến nghị.

Hoàng Anh - Quang Dũng

Muốn phát triển, ngành chè Việt phải đi con đường nông nghiệp hữu cơ

Muốn phát triển, ngành chè Việt phải đi con đường nông nghiệp hữu cơ

TS Nguyễn Ngọc Bình - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc chia sẻ về giải pháp sản xuất hữu cơ của ngành chè.

Hợp tác xã dừa hữu cơ ‘thách thức định kiến’

Hợp tác xã dừa hữu cơ ‘thách thức định kiến’

TÂY NINH Vượt qua định kiến về vùng đất khắc nghiệt, những vườn dừa hữu cơ ở Tây Ninh đang xanh mướt từng ngày, minh chứng cho sự đổi mới trong sản xuất nông nghiệp địa phương.

Hướng đi cho nông nghiệp và du lịch xanh

Hướng đi cho nông nghiệp và du lịch xanh

TÂY NINH Kết hợp dừa hữu cơ và du lịch sinh thái đang là mô hình triển vọng, mở hướng đi xanh, bền vững cho nông nghiệp và du lịch trên vùng đất nắng gió Tây Ninh.

Ca cao miền Tây chuyển sang hướng hữu cơ

Ca cao miền Tây chuyển sang hướng hữu cơ

Sau nhiều năm thu hẹp diện tích, cây ca cao ở ĐBSCL đang được khôi phục mạnh với sự tham gia của doanh nghiệp liên kết với nông dân.

Giá dừa cao kỷ lục, nông dân đón đầu xây dựng vùng nguyên liệu hữu cơ

Giá dừa cao kỷ lục, nông dân đón đầu xây dựng vùng nguyên liệu hữu cơ

CẦN THƠ Đón đầu giá dừa tăng cao lịch sử, chính quyền và nông dân xã Cù Lao Dung (TP Cần Thơ) quyết tâm lập vùng nguyên liệu hữu cơ, giữ chất lượng, ổn định đầu ra.

Vườn mẫu trên vùng cát thu nhập trên 200 triệu đồng mỗi năm

Vườn mẫu trên vùng cát thu nhập trên 200 triệu đồng mỗi năm

QUẢNG TRỊ ​Xây dựng vườn mẫu trên vùng cát bạc màu, canh tác theo hướng hữu cơ đã giúp nhiều gia đình có thu nhập trên 200 triệu đồng mỗi năm.

Đa lợi ích trồng sầu riêng theo hướng hữu cơ

Đa lợi ích trồng sầu riêng theo hướng hữu cơ

KHÁNH HÒA Trồng sầu riêng theo hướng hữu cơ không chỉ cho trái ngon, chất lượng cao mà còn bảo vệ đất và sức khỏe người trồng lẫn người tiêu dùng.

Vườn nho hữu cơ đắt khách như tôm tươi

Vườn nho hữu cơ đắt khách như tôm tươi

QUẢNG NINH Tại phường Bình Khê, tỉnh Quảng Ninh, một khu vườn rộng 1.500 m² đang thu hút sự chú ý của người dân và du khách.

Xem Thêm