Thứ ba, 16/12/2025 | 08:53 GMT +7

  • Click để copy
Thứ ba- 08:52, 16/12/2025

Miến '3 sao' và câu chuyện 3 nhà ở Lào Cai

Trong 605 sản phẩm OCOP của Lào Cai hiện có nhiều sản phẩm mang dấu ấn địa phương như trà táo mèo Shan Thịnh, cao mềm actiso Sa Pa, trà phun sương actiso Sa Pa...

Bên cạnh đó là những sản phẩm phổ thông có thị trường rộng và mức tiêu thụ lớn. Miến dong là mặt hàng như vậy, dù mới chỉ xuất hiện ở Lào Cai nhưng sản phẩm này tại nhiều địa phương khác đã có làng nghề truyền thống và kinh nghiệm sản xuất lâu năm. Thế nhưng tại xã Quy Mông, từ điểm xuất phát là “tân binh trong nghề miến” địa phương vẫn có cách làm riêng, với sự đồng hành của “3 nhà” để mang lại những giá trị cho sản phẩm mới.

Ông Đỗ Danh Toàn, Chủ tịch HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông với bà Phùng Thị Lan, thôn 2, xã Quy Mông bên vườn dong riềng cung cấp nguyên liệu làm miến cho HTX. Ảnh: Xuân Thủy.

Ông Đỗ Danh Toàn, Chủ tịch HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông với bà Phùng Thị Lan, thôn 2, xã Quy Mông bên vườn dong riềng cung cấp nguyên liệu làm miến cho HTX. Ảnh: Xuân Thủy.

Từ vùng nguyên liệu đến miến OCOP 3 sao

Ông Đỗ Danh Toàn sinh năm 1963, hiện trú tại thôn Thịnh An, xã Quy Mông. Khi ông còn là cậu bé thì những bông hoa dong riềng đỏ đã là hình ảnh quen thuộc. Trẻ con thường ngắt hoa hút mật chơi. Vị ngọt tuổi thơ ấy đã neo lại mãi trong ký ức của ông Toàn cũng như nhiều đứa trẻ Quy Mông khác.  

Lớn lên lập gia đình, nhà ông Toàn cũng như nhiều hộ dân tại thôn Thịnh An, trồng dong riềng đỏ là công việc vô cùng quen thuộc, nhà ít cũng 2, 3 sào, nhà nhiều 7, 8 sào. Nhưng ở Quy Mông, người dân chỉ trồng dong riềng đỏ thu hoạch củ bán cho cơ sở nghiền tinh bột chứ không trực tiếp làm miến. Thổ nhưỡng nơi này phù hợp với cây dong riềng, cho năng suất cao và chất lượng bột tốt nên các làng nghề miến truyền thống cũng rất ưa chuộng, thương lái thường tìm về mua nguyên liệu đầu vào.

Ông Toàn cũng vốn gốc gác ở Hoài Đức, Hà Nội, nơi có nghề làm miến thủ công lâu năm nhưng từ khi bố mẹ ông lập nghiệp ở quê mới thì nghề này trở nên xa lạ, dù nằm giữa vùng nguyên liệu. Giải thích điều này, ông Toàn cho biết, do đặc điểm khí hậu tại vùng quê mới Trấn Yên, Yên Bái mưa nhiều, độ ẩm cao, đến nửa năm trời đất dấp dính trong sương không phù hợp để làm miến, vốn công đoạn phơi cần nhiều nắng và quyết định khá lớn đến chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, củ dong riềng chỉ dừng ở mức xay và tinh lọc thành bột xuất đi các địa phương miền xuôi, trong đó có chính quê cũ của ông, giá thành và thu nhập của người trồng vì thế cũng bấp bênh, dễ bị tư thương ép giá.

Trong khi mỗi năm có hàng trăm tấn miến được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, dùng miến cho các món ăn gần như đã trở thành thói quen, một nét văn hóa của người Việt thì người dân Quy Mông dù nằm giữa vùng nguyên liệu làm ra sợi miến nhưng mỗi khi nhà muốn ăn vẫn phải đi mua miến nhập từ miền xuôi. Miến thì cũng không phải mặt hàng gì quá đặc biệt, ở đâu dân cũng ăn, thế mà mình có nguyên liệu mà lại phải đi mua thành phẩm? Ông Toàn cứ trăn trở mãi với suy nghĩ ấy. Khát vọng đi tận cùng với cây dong riềng ấp ủ trong ông, nhưng trước trời đất nắng ít mưa nhiều, một liếp bánh tráng xong mang ra phơi 2, 3 nắng hong khô, có khi hôm trước khô được bảy phần, hôm sau độ ẩm cao chẳng những không khô hơn mà còn bị ngấm ẩm trở lại nên ý tưởng của ông Toàn vừa nhen lên đã như bị hiện thực khắc nghiệt dập xuống.

Tại Quy Mông trước nay việc trồng dong riềng nhỏ lẻ, có hộ gia đình đứng ra thu mua xay củ dong thành bột bán, thế nhưng đến mùa thu hoạch, dong thì nhiều mà máy xay công suất nhỏ, làm không xuể, có đợt dong chất đống đến vài tháng, thối cả ra mà vẫn chưa xay được. Thực trạng đó đã kéo ông Toàn nhập cuộc bước một - tham gia xay bột dong riềng hỗ trợ sản xuất cho bà con. Ấy là năm 2009. Ở công đoạn này, củ dong thu hoạch cho vào giàn máy rửa, rửa xong xúc lên máy nghiền, rồi xả qua bể chứa, nhiều lần như vậy, bột sẽ lắng xuống, còn bã dong đẩy ra ngoài. Thời ấy mỗi ngày gia đình ông Toàn xay 4-5 tấn củ thu được 6-7 tạ bột dong. Bột dong làm ra giá thành chỉ 9.000-12.000 đồng/kg, còn củ dong thu mua của dân 8.000-9.000 đồng/yến.

Dong riềng tại Quy Mông trồng ngày càng nhiều, việc xay bột bán thực chất cũng chỉ là sơ chế, thế nên từ việc chế biến tinh bột đến việc làm ra sợi miến ở Quy Mông là cả một hành trình. Chính quyền xã vào cuộc, động viên bà con đi đến tận cùng với cây dong riềng. Từ chỗ đã trăn trở về điều này, nay được xã động viên hỗ trợ ông Đỗ Danh Toàn quyết tâm làm miến. Để chuẩn bị cho việc khởi nghiệp ông đã sắm máy tráng, máy thái, số tiền lên đến cả trăm triệu đồng. Gia đình ông Toàn cũng bỏ tiền xây dựng nhà xưởng, đánh đất san nền, làm sân phơi miến, tập kết nguyên liệu, ông sang tận Tuyên Quang đặt mua cả mấy chục triệu tiền liếp tre dùng để phơi bánh miến. Mọi thứ rục rịch từ đầu năm 2021, đến cuối năm ấy thì những mẻ miến tráng thái Toàn Nga (tên vợ chồng ông) đầu tiên hiện hình.

Cái gì mới cũng gặp muôn vàn khó khăn. Kỹ thuật và công thức đã nắm được nhưng khi thực hành thì tráng không ra bánh, bột cứ vón lại. Một mẻ hỏng, nhiều mẻ hỏng, có mẻ hỏng cả mấy tạ bột. Nhìn số sản phẩm vón cục bỏ đi, dù xót xa nhưng ông Toàn xác định, muốn thành công phải trả “học phí”. Ông Toàn chia sẻ, sau khi mất kha khá “tiền ngu” ông nhận ra kỹ thuật pha bột là quan trọng nhất, bột phải đủ độ chín mới không bị vón cục, bánh miến mới không thành… bánh đúc. Cuối cùng thì những sợi miến đầu tiên cũng định hình. Sản phẩm tập sự này ông bán cho dân địa phương coi như hình thức quảng cáo. Miến thị trường khi ấy 50-55.000 đồng/kg, ông bán rẻ cho người dân 40-45.000 đồng/kg, vừa là để nhận phản hồi ban đầu vừa để quảng bá sản phẩm.

Dần dà người dân Quy Mông ngoài việc mua miến Toàn Nga để ăn còn mua làm quà gửi đi những tỉnh khác. Trên bao bì có ghi địa chỉ cùng điện thoại liên lạc, khách ăn thấy ngon nên gọi điện đặt hàng. Ông Toàn còn nhớ đơn hàng đầu tiên của vị khách từ Hà Nam gọi lên đặt 5kg miến. Số lượng nhỏ thôi mà nó khiến ông vui mãi. Nhưng điều khiến ông vui hơn là từ 5kg đầu tiên ấy, khách tiếp tục gọi lại, đơn hàng nâng lên 10kg, 20kg, rồi đến cả tạ. Bây giờ thì có những đơn hàng đã lên đến cả tấn, tuy nhiên, năng lực sản xuất của HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông của ông chưa đáp ứng được số lượng lớn nên ông chưa dám nhận. Tin vui đến với ông khi sản phẩm miến của HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao của tỉnh Yên Bái trước đây, danh hiệu này như thêm một bảo chứng về chất lượng và độ an toàn cho sản phẩm, điều đó cũng khiến ông thêm động lực để phát triển thương hiệu. 

Hiện tại một năm cơ sở sản xuất miến tại HTX của ông xuất ra thị trường khoảng 10 tấn miến với 2 sản phẩm miến sợi nhỏ (dùng cho xào nấu) và miến sợi to (dùng để nhúng lẩu). Sản phẩm miến của HTX làm theo công nghệ tráng bánh - thái sợi, bột đã chín tới nên khi nấu đạt độ giòn dai, không bị nở khi ở lâu trong nước khiến người tiêu dùng rất ưa chuộng. Năm nay tình hình khó khăn, giá nguyên liệu giảm chỉ còn 1.100 đồng/kg dong riềng nhưng HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông vẫn mua cho người dân với mức giá cao hơn 200 đ/kg để đảm bảo ổn định vùng nguyên liệu.

Nhưng mẻ miến đao tráng thái Toàn Nga của HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông đang được chuẩn bị phục vụ dịp tết. Ảnh: Thanh Tiến.

Nhưng mẻ miến đao tráng thái Toàn Nga của HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông đang được chuẩn bị phục vụ dịp tết. Ảnh: Thanh Tiến.

Tín hiệu tích cực từ sự vào cuộc của '3 nhà'

Xã Quy Mông là nơi có 2 HTX sản xuất các sản phẩm và nguyên liệu miến là Việt Hải Đăng và Khởi nghiệp xanh Quy Mông, 1 đơn vị sản xuất miến theo phương pháp ép, 1 đơn vị sản xuất theo phương pháp tráng - thái. Cả 2 đơn vị đều đạt tiêu chuẩn sản phẩm OCOP 3 sao của tỉnh Yên Bái trước đây và tỉnh Lào Cai hiện nay. Để có sự phát triển đột phá và hướng tới sự ổn định của nghề miến vốn còn mới mẻ với địa phương, khẳng định chất lượng và thương hiệu “miến 3 sao” Quy Mông phải kể đến sự vào cuộc của “3 nhà”.

“Nhà” đầu tiên là “nhà tỉnh”. Nghị quyết 26/2020/NQ-HĐND ngày 04/12/2020 của HĐND tỉnh Lào Cai trước đây đã ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp đã cho thấy đây là quyết sách đúng đắn. Theo dự án này, tỉnh đã trích ra từ ngân sách nguồn kinh phí trên 100 tỉ đồng để hỗ trợ các địa phương phát triển sản phẩm OCOP theo mô hình “mỗi xã một sản phẩm”. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công thương cũng có những hoạt động hỗ trợ sản phẩm OCOP như nâng cao chất lượng, thương hiệu, xúc tiến thương mại, nhất là tiếp cận các sàn thương mại điện tử như Lazada, Shopee, Voso, Postmart.vn…, hỗ trợ tem mác, logo sản phẩm, mở rộng thị trường, cải tiến quy trình sản xuất và truy xuất nguồn gốc tạo tâm lý yên tâm cho khách hàng sử dụng sản phẩm và phù hợp với xu hướng tiêu dùng. Năm 2025, tỉnh Lào Cai mới tiếp tục chính sách trước đây từ nghị quyết 26/2020/NQ-HĐND đã hỗ trợ thưởng cho 64 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao đến 4 sao trên địa bàn tỉnh với tổng kinh phí lên tới 1 tỉ đồng. 2 HTX có sản phẩm miến 3 sao của Quy Mông cũng được hưởng lợi từ chính sách này.

Từ thực tế mô hình tại HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông, nơi đang phát triển nhãn hàng miến tráng thái Toàn Nga, chúng tôi đã nhận thấy hiệu quả bước đầu của sự vào cuộc khi nhà nước và nhân dân cùng bắt tay làm. Những đồng tiền hỗ trợ đến đúng địa chỉ, đúng thời điểm đã như những cú hích để sản phẩm địa phương có thể cất cánh khỏi ranh giới tỉnh nhà. Làm việc với Chi cục Chất lượng & Phát triển nông thôn, chúng tôi nhận thấy những chuyển biến mới sau sáp nhập tỉnh cũng như hợp nhất 2 sở. “Chi cục Chất lượng & Phát triển nông thôn đã có những đề xuất với Sở Nông nghiệp & Môi trường để Sở tham mưu cho tỉnh xây dựng chính sách đồng nhất của tỉnh Lào Cai mới đối với mảng phát triển nông thôn, trong đó có việc hỗ trợ, duy trì và phát triển các sản phẩm OCOP của tỉnh theo hướng phát triển hàng hóa và chế biến chuyên sâu”, ông Nguyễn Xuân Huy, Chi cục trưởng cho biết.

“Nhà” thứ hai là “nhà xã”, chính là chính quyền cấp xã tại địa phương. Nằm bên bờ sông Hồng, ngoài diện tích bãi bồi ven sông khá màu mỡ, phần còn lại của xã Quy Mông là địa hình bán sơn địa, đồi núi thấp xen lẫn những cánh đồng bằng phẳng. Đây là xã có diện tích lớn nhất vùng huyện Trấn Yên của tỉnh Yên Bái trước đây. Sau khi sáp nhập và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, Quy Mông được hợp lại bởi 4 xã, trên cơ sở những gì trước đây 4 xã đã triển khai xã Quy Mông mới đã xây dựng thành chiến lược phát triển chung. Riêng đối với cây dong riềng đỏ là loài cây truyền thống quen thuộc bà con đã trồng nhiều năm nay, chất lượng bột dong riềng Quy Mông đã được khẳng định trong giới làm miến các tỉnh thành. Việc ra đời và hoạt động hiệu quả của 2 HTX làm miến tại chỗ có thể nói là bước đột phá để cây dong riềng đi đến tận cùng với các sản phẩm miến.

Việc đi sâu sát, có định hướng đúng của chính quyền xã đã giúp Quy Mông củng cố vùng nguyên liệu ổn định, hạn chế rủi ro. Cùng chúng tôi đi thăm vùng nguyên liệu phục vụ việc sản xuất miến dong, ông Phạm Văn Hoàn, Chủ tịch UBND xã Quy Mông chia sẻ, vùng đất ven sông phù sa màu mỡ của địa phương rất tốt cho cây dong riềng, nhưng sau cơn bão Yagi nước sông Hồng dâng cao gây ngập úng làm chết và thiệt hại lớn với diện tích dong riềng ven sông, mỗi năm người dân chỉ trồng được một vụ, mất là coi như mất trắng, từ thực tế ấy, địa phương đã có định hướng phát triển cho phù hợp. “Trồng dong ven sông, nước dâng sẽ làm chết và thối củ, nhẹ thì giảm năng suất, nặng thì thất thu, chúng tôi đã định hướng cho bà con vùng bãi ngoài đê chuyển sang trồng dâu tằm để phát triển nguyên liệu tơ tằm (vốn là nghề cho thu nhập khá cao và ổn định), các vùng phía trong đê, đất đồng, rìa các thung lũng núi đồi phù hợp thì trồng dong riềng, còn phía trên các sườn đồi núi cao là diện tích dành để phát triển cây quế và măng bát độ”, ông Hoàn chia sẻ. Từ định hướng phát triển như vậy mà diện tích cây trồng chủ lực ở Quy Mông đã phù hợp hơn với đặc điểm địa hình và những yếu tố tự nhiên. Vùng nguyên liệu sản xuất miến sẽ dần ổn định hơn, hạn chế tác động của thiên tai và các yếu tố tự nhiên mang lại.

Theo kế hoạch tỉnh phân bổ hỗ trợ phát triển các sản phẩm OCOP xã Quy Mông được nhận hơn 6 tỉ đồng. Địa phương đã dùng số tiền này vào việc phát triển hạ tầng nông thôn, mở rộng đường ra các vùng nguyên liệu để ô tô có thể vào thu mua dong riềng ngay tại đầu bờ cho người dân. Vào mùa thu hoạch dong riềng, xe tải hơn mười tấn đã có thể vào thu gom tại ruộng cho bà con, giảm giá thành và công vận chuyển, ngoài ra còn góp phần phát triển giao thông nông thôn, xây dựng bộ mặt nông thôn mới. Cùng với đó, xã Quy Mông cũng tìm hiểu những vướng mắc của 2 HTX để hỗ trợ thiết thực, hiệu quả nhất. Để khắc phục yếu tố thời tiết mưa nhiều, độ ẩm cao, miến sản xuất theo phương pháp tráng - thái cổ truyền sẽ rất khó để nâng cao sản lượng, trong khi tiềm năng thị trường tiêu thị còn rất lớn, Ban quản lý dự án phát triển nông thôn với sự tư vấn của UBND xã dự kiến sẽ đầu tư hỗ trợ HTX Khởi nghiệp xanh Quy Mông 1 máy sấy với vốn đối ứng 70/30, tỉnh hỗ trợ 420 triệu đồng không hoàn lại, số tiền hơn 100 triệu đồng còn lại do HTX bỏ ra.

“Nhà” thứ ba chính là nhà nông, với sự phát triển về hạ tầng giao thông, sự hòa mạng Internet tiện lợi, họ cũng đã thay đổi thâm thế làm ăn, sẵn sàng nhập cuộc, ví dụ điển hình là gia đình ông Đỗ Danh Toàn như đã nói. Những bệ đỡ ấy đã trao cho nhà nông cơ hội biến khát vọng thành hiện thực. “Nhà tỉnh” có quyết sách đúng, “nhà xã” triển khai thực hiện trúng, đúng, thiết thực đã kích thích nhà nông vươn lên, mở ra những phương thức làm ăn mới hiệu quả.

Chia tay Quy Mông trong những ngày cuối năm, thời điểm mà HTX Khởi nghiệp xanh đang tất bật chuẩn bị cho những mẻ miến phục vụ tết nguyên đán, ông Đỗ Danh Toàn khấp khởi khoe với chúng tôi dự định mở rộng sân phơi và đường vào cơ sở làm miến khi khoản vay với lãi suất ưu đãi được Liên minh Hợp tác xã Việt Nam duyệt vay vốn. Khi được đầu tư thêm máy sấy việc làm miến của HTX cũng sẽ khắc phục được yếu tố thời tiết, trời không nắng vẫn có thể sản xuất miến, để nâng cao sản lượng miến tráng thái Quy Mông, không bỏ lỡ những đơn hàng lớn. Trong màn mưa lắc rắc, xe chúng tôi xuôi bờ sông Hồng, lướt giữa những vùng dong riềng, vùng dâu tằm đang hồi phục sau những ngày bão lũ, để lại ấn tượng về sự vươn mình của vùng đất với nỗ lực biến cái không thể thành có thể.

Một trong những điều cần hướng tới khi xây dựng các sản phẩm OCOP ở các địa phương trong cả nước là tính bền vững và khả năng phát triển, với cách làm của Lào Cai tại Quy Mông, nơi những giá trị căn cốt được chú trọng đã mở ra tiềm năng mới cho sản phẩm truyền thống của địa phương, để mỗi sản phẩm OCCP có thể đi đường dài chứ không chỉ là việc gắn mác đội sao rồi chết yểu.

Nguyễn Xuân Thủy

Miến '3 sao' và câu chuyện 3 nhà ở Lào Cai

Miến '3 sao' và câu chuyện 3 nhà ở Lào Cai

Trong 605 sản phẩm OCOP của Lào Cai hiện có nhiều sản phẩm mang dấu ấn địa phương như trà táo mèo Shan Thịnh, cao mềm actiso Sa Pa, trà phun sương actiso Sa Pa...

Giảm 30 - 50% chi phí phân bón nhờ phân hữu cơ tự ủ

Giảm 30 - 50% chi phí phân bón nhờ phân hữu cơ tự ủ

LÂM ĐỒNG Tận dụng phụ phẩm để ủ phân hữu cơ giúp nông dân giảm chi phí, cải thiện đất và bảo vệ môi trường, hướng tới nền nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn.

Người theo đuổi nông nghiệp sạch vì… mê phim Hàn Quốc

Người theo đuổi nông nghiệp sạch vì… mê phim Hàn Quốc

THANH HÓA  Anh Thiên theo đuổi con đường làm nông nghiệp an toàn, sản xuất thực phẩm sạch theo chuẩn VietGAP và hữu cơ chỉ vì… mê phim Hàn Quốc.

Đánh thức tiềm năng chè hữu cơ xứ Nghệ

Đánh thức tiềm năng chè hữu cơ xứ Nghệ

NGHỆ AN Dù có bề dày sản xuất và diện tích chè khá lớn song đến nay diện tích chè hữu cơ được chứng nhận của Nghệ An mới khoảng 20ha, dư địa còn rất lớn.

Khoai từ Cồn Tiên trồng theo hướng hữu cơ hút khách

Khoai từ Cồn Tiên trồng theo hướng hữu cơ hút khách

QUẢNG TRỊ Khoai từ Cồn Tiên trồng theo hướng hữu cơ thu hoạch đến đâu được thương lái thu mua đến đó với giá gần gấp đôi so với vụ trước.

Dồn điền đổi thửa tạo tiền đề phát triển sản xuất lúa hữu cơ

Dồn điền đổi thửa tạo tiền đề phát triển sản xuất lúa hữu cơ

HÀ TĨNH Sau ‘cuộc cách mạng’ dồn điền đổi thửa, những cánh đồng lúa sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ ở Hà Tĩnh ngày càng nở rộ và được duy trì.

Hình thành vùng thốt nốt hữu cơ quy mô lớn tại Bảy Núi

Hình thành vùng thốt nốt hữu cơ quy mô lớn tại Bảy Núi

AN GIANG An Giang đang xây dựng vùng thốt nốt hữu cơ tập trung tại Bảy Núi, nâng tầm giá trị đặc sản truyền thống, tạo chuỗi liên kết bền vững gắn với chế biến, xuất khẩu.

Xem Thêm